Vào
ngày 19/8, cách đây 75 năm về trước, lực lượng Công an nhân dân Việt Nam ra đời trong
không khí hân hoan, thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám lịch sử vĩ đại, là
dấu mốc quan trọng, sáng ngời trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và bảo
đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Những chặng đường lịch sử
cùng vận mệnh dân tộc
Công an Nhân dân Việt Nam
là một lực lượng vũ trang trọng yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, làm nòng cốt, xung kích trong sự nghiệp bảo vệ
an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội của Nhà nước Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam. Công an nhân dân có chức năng tham mưu cho Đảng, Nhà
nước về bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; thực hiện
thống nhất quản lí về bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã
hội; đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, các
loại tội phạm và các vi phạm pháp luật về
an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Công
an Nhân dân Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch Nước, sự thống nhất quản lí
của Chính phủ và sự chỉ huy, quản lí trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Công an. Khẩu
hiệu của lực lượng từ những ngày đầu thành lập là “Bảo vệ An ninh Tổ quốc”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng huy hiệu của người cho
CBCS Trung đoàn 600 CANDVT Ảnh Tư liệu
Nguồn gốc của lực lượng
Công an nhân dân Việt Nam được xem là bắt đầu từ các đội Tự vệ Đỏ trong phong
trào Xô viết Nghệ Tĩnh (1930-1931), các Đội Danh dự trừ gian, Hộ lương diệt
ác... do Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập với mục đích bảo vệ tổ chức. Những
năm 1930 - 1945, để chống các hoạt động phá hoại và do thám của thực dân Pháp
và chính quyền tay sai, bảo vệ cách mạng, Đảng Cộng sản Đông Dương đã thành lập
các đội: Tự vệ đỏ, Tự vệ công nông, Danh dự trừ gian, Danh dự Việt Minh. Đó là
những tổ chức tiền thân của công an nhân dân và quân đội nhân dân sau này.
Đầu năm 1940, Trung ương
Đảng chủ trương thành lập “Ban Công tác đội” làm nhiệm vụ bảo vệ An toàn khu
(ATK), bảo vệ cán bộ cao cấp của Đảng, giải thoát cho cán bộ khi bị địch bắt.
Ngày 15/5/1945, Xứ ủy Bắc kỳ thành lập “Đội danh dự trừ gian” do Xứ ủy trực
tiếp chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ diệt trừ bọn Việt gian đầu sỏ và vũ trang
tuyên truyền, chiến đấu khi cần thiết.
Cách mạng tháng 8 năm 1945,
cùng với việc tổng khởi nghĩa giành chính quyền, CAND Việt Nam đã ra đời. Ở Hà
Nội sau khi chiếm lĩnh Ty Cảnh sát và các quận, đồn cảnh sát của địch, ta đã
lập sở Liêm phóng Bắc bộ do đồng chí Chu Đình Xương cán bộ xứ ủy Bắc Kỳ giữ
chức giám đốc sở Liêm phóng và thành lập Ty Cảnh sát do đồng chí Nguyễn Huy
Khôi làm trưởng ty cảnh sát. Nhiều nơi ở Bắc bộ đã thành lập Ty Liêm phóng và
Ty Cảnh sát. Tại Trung bộ, ngày 23/8/1945 Ủy ban nội vụ Trung bộ quyết định
thành lập Sở trinh sát trung bộ do đồng chí Nguyễn Văn Ngọc làm giám đốc. Ở Nam
bộ, ngày 25/8/1945, Ủy ban hành chính lâm thời đã quyết định thành lập Quốc gia
tự vệ cuộc và cử hai đồng chí Dương Bạch Mai làm Giám đốc và đồng chí Nguyễn
Văn Trấn làm ủy trưởng Quốc gia tự vệ cuộc Nam bộ. Sự ra đời của lực lượng CAND
Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám là một tất yếu khách quan.
Quán triệt tinh thần chỉ
thị “kháng chiến kiến quốc” ngày 25/11/1945, ngành Công an đã anh dũng mưu trí
kịp thời khám phá các âm mưu và hoạt động phá hoại của bọn đặc vụ Tưởng, bọn
mật thám gián điệp Pháp câu kết với các loại phản động trong các đảng phái
chính trị phản động, tiêu diệt các sào huyệt gây tội ác giết người của chúng,
kịp thời đập tan âm mưu gây rối, gây bạo loạn hòng lật đổ chính quyền dân chủ
nhân dân, bảo vệ thắng lợi chính quyền cách mạng non trẻ. Tiêu biểu như khám
phá vụ “ôn như hầu” đập tan âm mưu của bọn quốc dân đảng; đại việt câu kết với
thực dân Pháp hòng lật đổ chính phủ cách mạng.
Ở Nam Bộ, với danh nghĩa
quân đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật, ngày 6/9/1945 quân đội Anh do tướng
Gơraxay chỉ huy đến Sài gò, lợi dụng danh nghĩa quân đồng minh, quân đội Anh
trắng trợn giúp đỡ Pháp xâm lược nước ta lần thứ hai. Những ngày đầu cuộc kháng
chiến ở Nam bộ, Quốc gia tự vệ cuộc đã trở thành lực lượng vũ trang chủ yếu của
Đảng, nhân dân ta vừa thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Đảng, chính quyền, đoàn thể và
nhân dân rút ra căn cứ chuẩn bị kháng chiến lâu dài vừa tổ chức các trận chiến
đấu vũ trang kìm chân địch, xây dựng cơ sở phá tề trừ gian. Điển hình là cuộc
chiến đấu của “Đội cảm tử” thuộc Quốc gia tự vệ cuộc Cần Thơ đã tiến công Sở
chỉ huy hành quân của Pháp ở thị trấn Cái Răng. Trận Cái Răng diễn ra trong
những ngày đầu Nam bộ kháng chiến đã khích lệ lòng yêu nước, chí căm thù giặc
và quyết tâm kháng chiến của đồng bào Nam bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đến
thăm cán bộ, chiến sỹ CAND tháng 02/1961. Ảnh tư liệu
Theo chủ trương của Trung
ương Đảng, ngày 21/2/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 23-SL thống nhất
các lực lượng liêm phóng, cảnh sát, trinh sát, quốc gia tự vệ cuộc trong toàn
quốc thành “Việt Nam công an vụ”. Đồng chí Lê Giản được giao nhiệm vụ Giám đốc
Việt Nam Công an vụ đầu tiên. Tiếp đó ngày 18/4/1946 Bộ Nội vụ ra quyết định số
121-NĐ về tổ chức Việt Nam Công an vụ. Nghị định quy định Việt Nam Công an vụ
có 3 cấp: Nha công an Trung ương, Sở công an kỳ, Ty công an tỉnh. Thực hiện Sắc
lệnh số 23-SL và Nghị định 121-NĐ, lực lượng Công an đã được triển khai thống
nhất trên tất cả các địa phương trong cả nước để làm nhiệm vụ bảo vệ Đảng, bảo
vệ chính quyền, bảo vệ nhân dân, trấn áp kịp thời bọn phản cách mạng và bọn
phạm tội khác, giữ gìn an ninh trật tự.
Ngày 16/2/1953 Chủ tịch Hồ
Chí Minh ký Sắc lệnh số 141-SL đổi Nha công an Trung ương thành Thứ Bộ Công an
trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Đồng chí Trần Quốc Hoàn ủy viên Trung ương Đảng
được cử giữ chức Thứ trưởng Thứ Bộ Công an. Trong cuộc họp Hội đồng Chính phủ
từ ngày 27-29 tháng 8/1953, dưới sự chủ tọa của Hồ Chủ Tịch, đã quyết định đổi
tên Thứ Bộ Công an thành Bộ Công an. Đồng chí Trần Quốc Hoàn ủy viên TW Đảng
được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Công an.
Từ kháng chiến chống thực
dân Pháp đến kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Công an nhân dân đã thực hiện tốt
nhiệm vụ giữ vững an ninh, trật tự, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc; tích cực chi viện cán bộ, vũ khí, phương tiện…cho chiến trường miền
Nam; bảo vệ phong trào cách mạng, tham gia tiếp quản vùng giải phóng, góp phần
quan trọng trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam,
thống nhất đất nước.
Lực lượng CAND bản lĩnh, nhân văn, vì nhân
dân phục vụ
Trong quá trình đổi mới,
những chuyển đổi về chính sách, cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, nhất là quá
trình hội nhập quốc tế đã có nhiều tác động đối với nhiệm vụ bảo vệ an ninh
quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội của đất nước, từ đó đặt ra cho lực
lượng Công an những nhiệm vụ chính trị rất nặng nề. Trong bối cảnh đó, lực
lượng Công an đã bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, chủ động đổi mới nhận thức, quan điểm, đối sách, tích cực triển
khai có hiệu quả các biện pháp công tác, giữ vững ổn định chính trị - xã hội,
bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc; tạo
môi trường hòa bình, phục vụ thắng lợi sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Kết quả đạt được của công tác Công an trong những năm đổi mới là rất lớn
và có thể tóm lược ở một số mặt công tác sau: Lực lượng Công an đã chủ động
tham mưu với Đảng, Nhà nước xây dựng chiến lược, chủ trương, chính sách, ban
hành pháp luật về đảm bảo an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội,
góp phần quan trọng thực hiện có hiệu quả công tác bảo đảm an ninh, trật tự
trong tình hình mới, phục vụ thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Đồng thời, lực lượng Công an đã tham mưu làm rõ vấn đề có tính nguyên tắc trong
bảo đảm an ninh, trật tự, trong đó khẳng định vai trò Đảng lãnh đạo tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt, Nhà nước quản lý tập trung, thống nhất và lực lượng Công
an làm nòng cốt.
Những truyền thống vẻ vang
anh hùng
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí
Minh đặc biệt quan tâm xây dựng lực lượng CAND vững mạnh về chính trị, tư
tưởng, tổ chức và đạo đức. Người yêu cầu xây dựng bộ máy tổ chức công an phải
mang tính dân chủ cao, giản đơn, thiết thực, hiệu quả, trong đó quan tâm xây
dựng bộ máy công an ở cơ sở, vùng biên giới, hải đảo. Người cán bộ công an
trong tư tưởng của Người thực sự là cái “gốc” của mọi công việc, được đề cập
khoa học, toàn diện từ khái niệm, vị trí, vai trò, nhiệm vụ, tư tưởng, bản chất
nhân văn của cán bộ đến tầm quan trọng của công tác cán bộ, nguyên tắc cơ bản
trong tuyển chọn, đào tạo, sử dụng, đánh giá, kiểm tra, giám sát cán bộ công an
và thi đua - khen thưởng, kỷ luật trong CAND.
Người luôn nhấn mạnh phẩm
chất trung thành với Đảng, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; đồng
thời, nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ công an phải tu dưỡng, rèn luyện, xứng đáng là
lực lượng vũ trang trọng yếu, tin cậy để bảo vệ Đảng, Nhà
nước và nhân dân. Điều này được thể hiện rõ nét, đầy đủ, toàn diện và sâu sắc
trong thư gửi đồng chí Hoàng Mai, Giám đốc Sở Công an khu XII ngày 11-3-1948,
trong đó nêu rõ Tư cách người Công an cách mệnh, đã trở thành tư tưởng lớn,
mang tầm chỉ đạo chiến lược trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng
CAND. Đó là: “Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính; Đối với đồng sự
phải: Thân Ái Giúp Đỡ; Đối với Chính phủ phải: Tuyệt Đối Trung Thành; Đối với
nhân dân phải: Kính Trọng Lễ Phép; Đối với công việc phải: Tận Tụy; Đối với
địch phải: Cương Quyết, Khôn Khéo”.
Công an Nhân dân làm theo lời Bác
Nhân kỷ niệm 75 năm ngày
Truyền thống Lực lượng Công an nhân dân, xin được kính chúc các thế hệ cán bộ,
chiến sĩ đã và đang phục vụ, công hiến trong ngành Công an sức khỏe, bản lĩnh,
trí tuệ, mưu trí, dũng cảm hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Tổ quốc
mãi mãi vinh danh trân trọng những người anh hùng, chiến sĩ Công an Nhân dân
luôn sẵn sàng cống hiến, hi sinh, quên mình dấn thân cho sự nghiệp cách mạng vẻ
vang của dân tộc, giữ gìn sự bình yên, hạnh phúc và thịnh vượng của nhân dân
ta.
BAN TUYÊN GIÁO QUẬN ỦY
(Phạm
Thị Thúy An, Chuyên viên Ban Tuyên giáo Quận ủy sưu tầm, tổng hợp)